Silver Fox Thông tin: Động vật Bắc Mỹ

Mô tả vật lý

Mặc dù thực tế không nhiều người biết đến, nhưng con cáo bạc thực sự là giống hệt như loài cáo đỏ, Vulpes Vulpes . Nó có tên từ màu lông của nó, từ màu bạc đậm đến màu đen gần như hoàn toàn. Giống như cáo đỏ, mắt cáo bạc cũng có màu vàng vàng khi chúng trưởng thành. Trọng lượng và chiều dài của những con cáo này có thể dao động rất nhiều tùy thuộc vào vị trí địa lý tương ứng của chúng. Trung bình, khi trưởng thành chúng nặng từ 11 đến 15 pounds (5 đến 7 kg), chiều dài của chúng từ đầu đến đuôi có thể dài tới 40 inch (1 mét). Cáo bạc là một phần của họ Canidae, khiến nó trở thành họ hàng gần gũi của chó và chó sói.

Chế độ ăn

Mặc dù nó thuộc Order Carnivora, nhưng điều này có thể gây hiểu nhầm về thói quen ăn kiêng của họ. Trên thực tế, cáo là loài ăn tạp, có nghĩa là chúng sẽ ăn cả thịt (bao gồm cả giết chết tươi và carrion) và thực phẩm thực vật. Chế độ ăn uống của chúng chủ yếu bao gồm các loài gặm nhấm, thỏ, côn trùng, chim, quả mọng và các loại cây khác, tùy thuộc vào vị trí. Khi chúng có lượng thức ăn dồi dào, chúng sẽ lưu trữ thức ăn trong bộ nhớ cache và lưu chúng vào thời điểm khó khăn hơn. Những tuyên bố của Foxes về dự trữ thức ăn và sự linh hoạt trong chế độ ăn uống của chúng là một phần lý do tại sao cáo đã rất thành công trên khắp các khu vực khác nhau trên thế giới. Cáo có thể gặp rắc rối với con người khi chúng băng qua đường, vì cáo không gặp khó khăn gì khi đi qua hàng rào để đến chỗ chăn nuôi. Trong môi trường đô thị, họ có thể được nhìn thấy lục lọi trong thùng rác, hoặc thậm chí ăn thức ăn vật nuôi bị bỏ lại bên ngoài.

Môi trường sống và phạm vi

Cáo bạc, cùng với cáo đỏ, là thành viên của các loài phân tán rộng rãi nhất từ ​​Order Carnivora trên thế giới. Cộng đồng người di cư của họ trải dài khắp Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và thậm chí cả Úc. Cáo đã chứng tỏ mình rất linh hoạt, đã tìm ra cách để tồn tại trong mọi loại môi trường và thậm chí còn được coi là loài gây hại ở một số nơi trên thế giới. Một phần của việc mở rộng lãnh thổ của họ là do sự giới thiệu của con người, để họ có thể tham gia vào cuộc săn cáo ở những khu vực mới. Một lý do khác là do sự tiêu diệt các đối thủ săn mồi của chúng. Mặc dù chúng được coi là một loài "Ít quan tâm nhất" trong Danh sách đỏ của IUCN, nhưng chúng bị tổn thất môi trường sống và khai thác thông qua việc nuôi lông và buôn bán lông thú. Loại thứ hai đặc biệt dành cho những con cáo bạc, có bộ xương được đánh giá cao vì màu sắc độc đáo của chúng.

Hành vi

Cáo bạc chủ yếu là động vật đơn độc, và là bán lãnh thổ. Trong phạm vi lãnh thổ được tuyên bố của họ là mật độ và bộ đệm thức ăn. Không giống như họ hàng chó khác, cáo không thể tạo ra tiếng sủa và tiếng hú như chó và chó sói. Thay vào đó, chúng có thể tạo ra một loạt các âm thanh độc đáo bao gồm tiếng sủa cảnh báo cao độ, tiếng la hét, và tiếng khụt khịt, mặc dù tiếng ồn khác biệt nhất của chúng là tiếng gawker, và nó nghe như tiếng cười khúc khích. Cáo gekker khi chúng phấn khích hoặc lo lắng, vì vậy chúng có thể gekker trong khi chơi hoặc khi chúng đang bảo vệ lãnh thổ của mình trước những kẻ xâm nhập. Trong mùa đông, cáo được biết là sử dụng đuôi của chúng làm chăn để giữ ấm.

Sinh sản

Do phạm vi địa lý rộng của chúng, mùa giao phối của cáo bạc thay đổi rất nhiều. Vixens có thể giao phối với nhiều con đực, nhưng cuối cùng, cô sẽ tạo thành một cặp một vợ một chồng chỉ với một lựa chọn cuối cùng. Chúng sẽ chỉ sinh sản một lần một năm và thời gian mang thai của chúng kéo dài dưới 2 tháng. Số lượng chó con có thể dao động rất nhiều, nhưng trung bình là 5 bộ dụng cụ mỗi lứa. Các bộ dụng cụ không mở mắt cho đến 2 tuần sau khi sinh và sẽ mất đến 5 tuần để rời khỏi phòng thí nghiệm của chúng. Các đơn vị gia đình sẽ ở cùng nhau cho đến mùa thu, và khi bộ dụng cụ đạt đến độ chín sau 10 tháng, họ sẽ rời đi để tìm lãnh thổ của riêng mình.