Loài lưỡng cư và loài bò sát xâm lấn tồi tệ nhất

Các loài xâm lấn là những loài được đưa vào một môi trường sống cụ thể và kể từ đó đã lan rộng gây thiệt hại trên diện rộng cho môi trường sống và các động vật khác. Mặc dù rất khó để xác định loài xâm lấn nào tệ hơn các loài khác, Nhóm Chuyên gia Loài xâm lấn IUCN đã thu hẹp danh sách để bao gồm 3 loài lưỡng cư và 2 loài bò sát trong Cơ sở dữ liệu Loài xâm lấn Toàn cầu. Đây là những loài lưỡng cư và bò sát xấu nhất trên thế giới.

5. Bufo Marinus

Bufo marinus là tên khoa học của cóc mía. Những con cóc mía còn được gọi là cóc biển hoặc cóc khổng lồ. Chúng có nguồn gốc từ Nam và Trung Mỹ. Một lợi thế của cóc mía là chúng diệt bọ cánh cứng khỏi mía. Chính vì lý do này mà họ đã được giới thiệu đến các nơi khác trên thế giới như Úc. Tuy nhiên, trước đó không lâu, dân số của loài cóc phát triển đến mức chúng biến thành sâu bệnh và bắt đầu trở nên tàn phá. Vì nó là loài ăn thịt, nó đe dọa các loài bản địa thông qua việc săn mồi. Cóc mía trưởng thành có chiều dài lên tới 15 cm. Chúng là loài ăn thịt được phân loại là động vật lưỡng cư. Những con cóc mía có tuổi thọ từ 10 - 15 năm. Động vật ăn thịt của nó bao gồm rắn, chim và chó. Cóc mía sản xuất độc tố bufotenine được sử dụng bởi người Nam Mỹ bản địa để tạo ra mũi tên độc. Chất độc này cũng được người Nhật sử dụng làm thuốc kích thích tình dục và phục hồi tóc. Độc tố bufotenine cũng làm giảm nhịp tim của bệnh nhân trong phẫu thuật tim. Mặc dù độc tố trong cóc mía có lợi, nhưng nó cũng có hại đặc biệt đối với các loài lưỡng cư khác. Chúng có độc tính cao đối với bất kỳ động vật nào ăn chúng. Do đó, đã có những nỗ lực nhằm loại bỏ những con cóc mía. Những nỗ lực này đã không thành công do dân số cóc mía cao.

4. Eleutherodactylus Coqui

Eleutherodactylus coqui là tên khoa học của ếch Coqui. Đây là một loài ếch cây thân tròn, nhỏ có nguồn gốc từ Puerto Rico. Tuy nhiên, chúng đã lan sang các đảo xung quanh khác như Hawaii. Chúng thường có màu nâu hoặc xám nâu. Ếch Coqui sống trên mặt đất, bụi rậm và cây cối. Nó được biết đến với các cuộc gọi giao phối cao độ được thực hiện bởi con đực vào ban đêm. Ếch Coqui có quần thể rất cao. Lý do cho điều này là không có động vật săn mồi tự nhiên nào có thể kiểm soát được các con số. Do đó, có 55.000 con ếch trên một ha ở một số vùng của Hawaii. Những con ếch ăn một lượng lớn côn trùng dẫn đến ít côn trùng hơn trong hệ sinh thái. Sau đó, có những thách thức với sự phát triển của cây vì việc thụ phấn hiếm khi diễn ra. Sự xâm lấn của ếch Coqui dẫn đến giảm xuất khẩu thực vật và tác động xấu đến ngành du lịch. Hơn nữa, yêu cầu công bố cho chủ sở hữu bất động sản đã dẫn đến tỷ lệ phát triển bất động sản thấp ở một số khu vực. Một trong những biện pháp đã được áp dụng để giảm số lượng ếch Coqui là cấm vận chuyển ếch có chủ ý ở Hawaii. Một phương pháp khác được sử dụng để loại bỏ trứng là tắm nước nóng cho cây trong các vườn ươm thương mại. Ngoài ra còn có các thử nghiệm thực địa đang diễn ra về một loại thuốc xịt sẽ được sử dụng trong tương lai.

3. Litvaates Catesbeianus

Litvaates catesbeianus là tên khoa học của loài bò tót Mỹ. Tên của nó xuất phát từ tiếng kêu sâu, cộng hưởng đặc trưng của loài của nó. Con ếch dành phần lớn cuộc đời của nó trong nước hoặc gần nước. Nó có nguồn gốc từ miền đông Bắc Mỹ và đông nam Canada. Sự ra đời của bullfrog đến các nơi khác trên thế giới đã là một mối đe dọa đối với các loài bản địa của những vùng đất đó. Những con ếch xâm lấn dưới hình thức săn mồi và cạnh tranh. Chúng được biết đến là con mồi của các loài có nguy cơ tuyệt chủng như cóc Armagosa, ếch báo Chiricahua và ếch đốm Oregon. Những con bò tót cũng sợ là người mang nấm chytrid gây bệnh Chytridiomycosis ở động vật lưỡng cư. Thoát khỏi những cuộc đấu bò tót đã là một thách thức vì hai lý do. Thứ nhất, bullfrog có thể di chuyển trong một khoảng cách rất dài do đó chiếm một phần lớn đất đai. Thứ hai, ếch con xâm chiếm ao mới rất dễ dàng. Do đó, việc tái tổ hợp thường diễn ra khiến các chương trình diệt trừ không hiệu quả. Tuy nhiên, một số biện pháp được sử dụng để diệt trừ những con bò tót bao gồm bắt nòng nọc bằng cách sử dụng lưới fyke đôi, cấm giới thiệu mới, bắn, câu cá, bẫy và sử dụng cung tên.

2. Boiga iruityis

Boiga iruityis là một loài rắn cây nâu có độc nhẹ. Nó được phát hiện lần đầu tiên ở đảo Guam vào những năm 1950. Mọi người tin rằng con rắn đã vô tình đến đảo Guam thông qua hàng hóa nhập khẩu. Con rắn cây nâu là một con rắn mảnh khảnh, leo trèo. Đôi mắt của nó to và sở hữu một con ngươi thẳng đứng. Đồng tử thẳng đứng giải thích tầm nhìn ban đêm được cải thiện của nó. Con rắn cây nâu xâm lấn theo nhiều cách. Đầu tiên, nó đã suy tàn và thậm chí dẫn đến sự tuyệt chủng của loài chim và dơi bản địa của đảo Guam. Thứ hai, con rắn chịu trách nhiệm cho một trên 1.000 trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ phải nhập viện do vết cắn của nọc độc. Những con rắn cây nâu cũng gây mất điện bằng cách trèo lên dây điện. Chúng cũng được coi là loài gây hại nông nghiệp. Một số biện pháp đã được đưa ra để giảm dân số của rắn nâu. Các biện pháp bao gồm sử dụng các rào cản, bẫy, chất độc miệng, đội chó phát hiện và mồi độc hại. Hơn nữa, những con rắn cũng có thể chết tự nhiên do nhiệt độ cực nóng hoặc lạnh.

1. Trạchemys Scripta Elegans

Trạchemys scripta Elegans là tên khoa học của thanh trượt tai đỏ. Thanh trượt tai đỏ là một con rùa nước ngọt độc đáo với các mảng màu đỏ đến vàng nổi bật ở hai bên đầu. Con rùa có thể tồn tại trong tự nhiên tới 40 năm. Nó có nguồn gốc từ Thung lũng Mississippi và thung lũng sông Tennessee và Cumberland. Thanh trượt tai đỏ là mối đe dọa đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng như rùa ao châu Âu. Chúng là một mối đe dọa vì chúng cạnh tranh với rùa bản địa về môi trường sống, thức ăn và các tài nguyên khác. Bên cạnh đó, việc phát hành vào hệ sinh thái tự nhiên cũng có nguy cơ lây truyền ký sinh trùng. Hơn nữa, những người trượt là người mang Salmonella dẫn đến căn bệnh được gọi là bệnh salmonella ở người. Các chiến lược hiện tại được sử dụng để quản lý quần thể của những con trượt tai đỏ bao gồm bẫy bẫy, tiêu diệt chúng, săn bắn người lớn, khử trùng chúng, và thu thập trứng và ấp trứng.